LTS - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV diễn ra từ ngày 19-25/1/2026 tại Hà Nội. Trong chương trình nghị sự của Đại hội, Đảng ta sẽ thảo luận về Báo cáo tổng kết 40 năm Đổi mới, trong đó nêu rõ bối cảnh và thử thách của đất nước trước năm 1986 dẫn đến công cuộc cải cách toàn diện để rồi sau 40 năm, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật toàn diện. Bài viết của chuyên gia Phan Thế Hải sẽ giúp bạn đọc có góc nhìn tổng quát về hành trình và thành tựu của Việt Nam sau 40 năm đổi mới.

Đại hội Đảng lần thứ VI vào tháng 12/1986 cho phép phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng mãi đến ngày 21/12/1990, Quốc hội mới thông qua Luật Công ty, mở ra hàng loạt thành tựu mới cho TP.HCM.

Từ Luật Công ty đến Luật Doanh nghiệp

Theo đó, Luật có hiệu lực từ 15/4/1991, là luật đầu tiên của Việt Nam điều chỉnh doanh nghiệp tư nhân theo mô hình công ty, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong thể chế kinh tế thời kỳ đổi mới. Là tiền đề cho Luật Doanh nghiệp 1999 với nhiều điều khoản thông thoáng hơn. Các luật doanh nghiệp sau này theo hướng hậu kiểm, gần hơn với chuẩn mực quốc tế.

Trong công cuộc chuyển đổi nền kinh tế, TP.HCM được xem là Phòng thí nghiệm đổi mới sớm nhất. Ảnh: Văn Trung
Trong công cuộc chuyển đổi nền kinh tế, TP.HCM được xem là Phòng thí nghiệm đổi mới sớm nhất. Ảnh: Văn Trung

Luật Công ty năm 1990 đã tạo ra “khung pháp lý hợp thức hóa” cho kinh tế tư nhân và tại TP.HCM, địa bàn năng động nhất cả nước thời kỳ đầu Đổi mới, tác động của luật này thể hiện rõ rệt và sớm hơn các địa phương khác. Có thể khái quát trên mấy phương diện chính:

Thứ nhất là hợp pháp hóa khu vực kinh tế tư nhân ở đô thị quy mô lớn trọng điểm phía Nam. Trước 1990, ở TP.HCM, kinh tế tư nhân tồn tại mạnh, hàng hóa phong phú nhưng “nửa hợp pháp” nửa không. Nhiều cơ sở sản xuất - thương mại hoạt động dưới hình thức tổ hợp tác, “mượn danh” hợp tác xã, xí nghiệp quốc doanh hoặc đứng tên cá nhân, rất rủi ro pháp lý. Luật Công ty 1990 lần đầu tiên cho phép doanh nhân được thành lập công ty có tư cách pháp nhân, được Nhà nước bảo hộ tài sản, vốn và lợi nhuận. Điều này giúp doanh nghiệp tư nhân TP.HCM thoát khỏi tình trạng “đi đêm, lách luật”, yên tâm mở rộng sản xuất - kinh doanh.

Thứ hai là luật Công ty cũng tạo điều kiện tích tụ và huy động vốn trong dân. TP.HCM vốn có lượng vốn nhàn rỗi trong dân lớn, mạng lưới tiểu thương, thợ thủ công, chủ xưởng gia đình phát triển. Luật Công ty 1990 cho phép những người dân có vốn dư dôi góp vào công ty TNHH, công ty cổ phần. Nhờ đó các cơ sở cá thể nhỏ chuyển hóa thành doanh nghiệp, hình thành những công ty tư nhân đầu tiên có quy mô vừa và lớn. Theo đó quy trình quản trị tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản lý nhân sự cũng từng bước được chuẩn hóa, bài bản hơn. Nhờ vậy, những năm đầu thập niên 1990, TP.HCM trở thành nơi tập trung sớm nhất các công ty TNHH, CTCP tư nhân của cả nước.

Nhiều doanh nghiệp “đời đầu” ở TP.HCM nay đã trở thành những thương hiệu lớn vươn tầm quốc gia và quốc tế.

Bên cạnh đó cũng có không ít doanh nghiệp lớn mạnh nhưng rồi vướng vào lao lý. Trong số đó có thể kể đến như Minh Phụng, Tân Hiệp Phát, Vạn Thịnh Phát… Điều này cho thấy, trong quá trình đổi mới thành công nhiều nhưng đổ bể cũng không ít.

Thứ ba là luật Công ty không chỉ cho phép tích tụ vốn – mở rộng quy mô mà còn giúp doanh nghiệp ký hợp đồng xây dựng lớn, liên doanh với đối tác nước ngoài, làm vệ tinh, gia công, phân phối cho doanh nghiệp FDI để rồi qua đó học hỏi nắm bắt được công nghệ sản xuất, công nghệ quản trị doanh nghiệp tiên tiến nhất. Đây là nền tảng cho sự trưởng thành của lực lượng doanh nhân TP.HCM sau này.

Năm 1990, Nhà nước cũng ban hành Pháp lệnh Ngân hàng (23/5/1990, có hiệu lực từ 1/10/1990) là văn bản đặt nền móng cho hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam, chấm dứt mô hình “ngân hàng một cấp” kiểu bao cấp. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng ngân hàng trung ương; Quản lý nhà nước về tiền tệ – tín dụng – ngân hàng; Phát hành tiền, điều hành chính sách tiền tệ. Các tổ chức tín dụng hoạt động như một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ…

Pháp lệnh này đã tác động mạnh đến TP.HCM. Các ngân hàng thương mại mở chi nhánh dày đặc, cạnh tranh cho vay, huy động vồn. TP.HCM trở thành trung tâm tài chính doanh nghiệp tư nhân đầu tiên của cả nước, Trung tâm ngân hàng – tín dụng lớn nhất (1995–2000). Nơi đây hội tụ trụ sở hoặc trung tâm giao dịch của các NHTM quốc doanh lớn, các ngân hàng cổ phần đầu tiên. ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài. Tỷ trọng tín dụng, huy động vốn luôn chiếm 30-40% cả nước. TP.HCM là nơi đầu tiên xuất hiện các nghiệp vụ mới như thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh, LC. Là “Cửa ngõ tài chính” của nền kinh tế VN thời hội nhập.

TP.HCM cũng là nơi hình thành thị trường vốn hiện đại, cú hích quyết định để khai trương Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) từ năm 2000 (trước Hà Nội). HOSE đã trở thành nơi niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp lớn, là trung tâm huy động vốn dài hạn. Cùng với đó là hệ sinh thái tài chính đi kèm gồm: Công ty chứng khoán; Quỹ đầu tư; Kiểm toán, tư vấn, luật tài chính; Bảo hiểm… hoạt động nhộn nhịp như các đô thị lớn khu vực.

TP.HCM- tiên phong mở cửa thu hút vốn FDI

Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên được Quốc hội thông qua vào ngày 29/12/1987, chính thức mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài (FDI) đầu tư tại VN trong khuôn khổ pháp lý mới. Chính sách này có hiệu lực từ 1/1/1988, đánh dấu bước ngoặt trong thu hút vốn FDI nói chung và khởi đầu cho dòng vốn đổ vào TP.HCM nói riêng.

Ngay sau khi chính sách mở cửa được ban hành, TP.HCM được chọn làm “điểm khởi động” thu hút vốn FDI với nhiều mô hình đầu tư thử nghiệm. Thành phố triển khai xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp ngay từ cuối thập niên 1980 để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoạt động.

Khu chế xuất Tân Thuận là một trong những mô hình điển hình đầu tiên được thành lập đầu những năm 1990 đã thu hút nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư, sản xuất và xuất khẩu. Ngoài Khu chế xuất Tân Thuận, nhiều khu chế xuất khác như Linh Trung, Khu công nghiệp Sóng Thần, Việt Hương, VSIP, Mỹ Phước…... cũng tiên phong trong việc thu hút vốn FDI.

Khu vực kinh tế FDI thay đổi cấu trúc kinh tế và cách vận hành của TP.HCM

Có thể nhìn sự thay đổi này theo nhiều góc độ. Trước đổi mới, TP.HCM mạnh về thương mại - dịch vụ phi chính thức. Lĩnh vực công nghiệp còn nhỏ lẻ, thiếu vốn, công nghệ, thị trường. Sau khi khơi thông dòng vốn FDI, lĩnh vực công nghiệp đã hình thành các ngành mới như Điện - điện tử; Cơ khí chính xác; Dệt may - da giày xuất khẩu; Thực phẩm - đồ uống quy mô lớn... nhờ đó Thành phố chuyển nhanh sang công nghiệp chế biến - chế tạo; Dịch vụ gắn với sản xuất và xuất khẩu; FDI trở thành động lực tăng trưởng chủ đạo của kinh tế TP.HCM suốt hơn 30 năm qua.

Cũng nhờ vốn FDI mà hàng triệu lao động từ Đồng bằng Sông Cửu Long, từ miền Trung, Đông Nam bộ đổ về Thành phố tham gia các nhà máy FDI, TP.HCM trở thành trung tâm tiếp nhận lao động lớn nhất cả nước, có cơ cấu dân cư trẻ, năng động.

Cùng với dòng vốn, công nghệ, doanh nghiệp FDI còn mang vào quy trình quản trị, kỷ luật sản xuất, chuẩn chất lượng quốc tế… Điều này đã tác động lâu dài làm thay đổi tác phong lao động, nâng mặt bằng kỹ năng nhân lực đô thị. FDI cũng đã gián tiếp làm thay đổi cách vận hành kinh tế - quản trị đô thị. Chính quyền chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ”.

Thông qua FDI, Thành phố kết nối trực tiếp với chuỗi cung ứng toàn cầu. Đặc biệt là thâm nhập vào những thị trường lớn khó tính như: Mỹ, EU, Nhật, Hàn. TP.HCM trở thành “cửa ngõ” hội nhập của Việt Nam - Trung tâm xuất khẩu lớn nhất cả nước.

FDI cũng trực tiếp và gián tiếp tạo nên những khu đô thị mới như Phú Mỹ Hưng, Thảo Điền, Khu Đông (TP. Thủ Đức trước đây)… và đã tạo ra sự lan tỏa hiện đại hóa đô thị nhanh, tiệm cận các đô thị châu Á mới nổi.

FDI thế hệ mới - chuyển từ số lượng sang chất lượng

Sau 40 năm mở cửa, thu hút vốn đầu tư, FDI đã biến TP.HCM từ một đô thị hậu bao cấp, kinh tế phi chính thức, thiếu vốn, công nghệ thành một đại đô thị công nghiệp - dịch vụ gắn với kinh tế toàn cầu. Để FDI tiếp tục là động lực thúc đẩy quá trình hội nhập sâu, hiện đại hóa, số hóa, Thành phố chủ trương từ FDI gia công sang FDI công nghệ - tri thức.

TP.HCM cũng xác định không cạnh tranh bằng lao động rẻ, không mở rộng KCN đại trà, không thu hút FDI thâm dụng đất, ô nhiễm. Thay vào đó, Thành phố ưu tiên công nghệ cao, Trung tâm R&D, thiết kế - sáng tạo - dịch vụ giá trị gia tăng cao. Đặc biệt ưu tiên ngành chip bán dẫn - AI, công nghệ thông tin, phần mềm, công nghệ sinh học - y tế.

FDI đã biến TP.HCM từ một đô thị hậu bao cấp, kinh tế phi chính thức, thiếu vốn, công nghệ thành một đại đô thị công nghiệp - dịch vụ gắn với kinh tế toàn cầu
FDI đã biến TP.HCM từ một đô thị hậu bao cấp, kinh tế phi chính thức, thiếu vốn, công nghệ thành một đại đô thị công nghiệp - dịch vụ gắn với kinh tế toàn cầu

Đặc biệt hơn là công nghệ tài chính - fintech, logistics thông minh, kinh tế số - kinh tế xanh. TP.HCM không chỉ mời gọi nhà đầu tư mở nhà máy, mà kéo cả Trung tâm R&D, chuỗi cung ứng, startup vệ tinh, trường đại học, viện nghiên cứu..., FDI được đặt vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, không tách rời doanh nghiệp nội địa.

Mới đây, TP.HCM đã đưa vào vận hành Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) và kỳ vọng trở thành đầu mối thu hút vốn ngoại, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, fintech, công nghệ số và dịch vụ tài chính quốc tế. Với vị thế của mình, TP.HCM đang có nhiều tiềm năng để chắc chắn trở thành Trung tâm tài chính của khu vực.

Phan Thế Hải