Xanh hóa gắn với chuyển đổi số toàn diện trong ngành logistics và cảng biển không chỉ là xu thế mà còn là điều kiện sống còn để duy trì lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, vẫn cần hoàn thiện nhiều chính sách để lộ trình này đạt hiệu quả, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Một thực tế đáng ghi nhận là nhận thức về logistics xanh và cảng biển xanh tại các doanh nghiệp cảng biển tại nước ta đã tăng lên đáng kể. Tại TP.HCM, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn (SNP) - đơn vị vận hành cảng Cát Lái và cụm cảng Cái Mép được ghi nhận nhiều kết quả tích cực trong việc chuyển đổi xanh gắn với số hóa. Từ khoản đầu tư ban đầu khoảng 100 tỷ đồng xây dựng hệ sinh thái cảng thông minh kết nối với hệ thống một cửa quốc gia và ASEAN, cảng Cát Lái đã xử lý tới gần 6 triệu TEU, gần gấp đôi công suất thiết kế. Song song đó, SNP đã chuyển dần thiết bị xếp dỡ từ chạy dầu diesel sang điện, giúp mỗi năm tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng chi phí nhiên liệu (chỉ phải chi gần 66 tỷ tiền điện so với gần 326 tỷ nếu dùng diesel). Đến nay, SNP đã lắp hơn 400.000 m² điện mặt trời áp mái (tổng công suất 80 MW/năm) tại các cảng, đưa vào sử dụng xe buýt điện nội bộ, thay thế động cơ diesel 2 thì bằng 4 thì cho tàu dịch vụ, và thí điểm cảng bán tự động tại Cát Lái. Về số hóa, SNP triển khai loạt giải pháp công nghệ như lệnh giao hàng điện tử (eDO), cổng ePort, ứng dụng check-in online, giúp rút ngắn thời gian giao nhận container và giảm khí thải từ xe chờ.
Tân Cảng Sài Gòn cũng là cái tên được xem là tiên phong “cảng xanh” của Việt Nam. Ông Trương Tấn Lộc - Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Cảng quốc tế Tân Cảng - Cái Mép, Phó Chủ tịch Hiệp hội Logistics TP.HCM (HLA) cho biết, các nỗ lực của Công ty bao gồm phát triển sà lan điện, hành lang vận tải xanh, đầu tư năng lượng mặt trời, nghiên cứu ứng dụng lưu trữ năng lượng bằng pin vanadium và điện hóa thiết bị để giảm CO₂, giúp tiết kiệm nhiên liệu ước tính khoảng 1,5 đến 2 triệu USD mỗi năm. Việc này giúp doanh nghiệp hoàn thiện "hồ sơ xanh" cho sản phẩm và biến các yêu cầu khắt khe của thị trường thành lợi thế cạnh tranh.

Theo bà Võ Thị Phương Lan - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc ASL Logistics, thế giới đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc mạnh mẽ của ngành logistics dưới tác động của ba xu thế lớn: Số hóa toàn diện, logistics xanh theo chuẩn ESG và cuộc cạnh tranh quốc gia nhằm sở hữu hệ sinh thái logistics thông minh. Các nền kinh tế tiên tiến như châu Âu, Mỹ, Singapore, Hàn Quốc đã triển khai mô hình Smart Logistics với dữ liệu liên thông giữa vận tải - cảng biển - hải quan - nhà cung cấp, đồng thời tích hợp khả năng theo dõi lô hàng theo thời gian thực. Cùng với đó, các quy định mới về phát thải carbon như CBAM buộc doanh nghiệp toàn cầu phải minh bạch lượng phát thải ở từng lô hàng, tạo nên yêu cầu cấp thiết cho việc áp dụng công nghệ đo lường và giám sát carbon trong vận hành logistics.
Trong khi đó, TP.HCM dù sở hữu nhiều lợi thế như vị trí địa lý chiến lược và hệ thống cảng nước sâu phát triển nhanh, vẫn đối mặt với những thách thức lớn như dữ liệu logistics phân tán, chi phí logistics cao và áp lực tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế ngày càng tăng. Bà Lan cho rằng bài toán của TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung không chỉ là “có chuyển đổi hay không”, mà là doanh nghiệp phải chuyển đổi đủ nhanh để không bị bỏ lại phía sau trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Từ năm 2020, ASL Logistics đã tiến hành chuyển đổi số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái công nghệ kết nối đa tầng gồm ERP, TMS, Fuel Management, GPS, HRM, Track & Trace, E-Pricing Platform và đặc biệt là nền tảng 4PL tích hợp ECUS – ERP. Hệ thống này cho phép đồng bộ 100% dữ liệu theo thời gian thực, từ khai báo hải quan, giao nhận, vận tải tới kế toán và chi phí. Nhờ đó, doanh nghiệp loại bỏ hoàn toàn sai lệch dữ liệu, rút ngắn thời gian xử lý và tạo lập nguồn dữ liệu chuẩn phục vụ báo cáo ESG và carbon theo tiêu chuẩn quốc tế. Song song với số hóa, ASL phát triển năng lực logistics xanh thông qua các giải pháp như Smart Routing tối ưu lộ trình giảm CO₂, Smart Documentation chuẩn hóa chứng từ điện tử xuyên biên giới và Dashboard Carbon Realtime giúp giám sát phát thải theo thời gian thực.
Những giải pháp này không chỉ giúp doanh nghiệp tối ưu chi phí mà còn đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe từ các thị trường xuất khẩu lớn. Một minh chứng điển hình cho hiệu quả của logistics thông minh là trường hợp Heineken Vietnam đã triển khai thành công 4PL Platform cho kết quả thời gian xử lý mỗi lô hàng rút ngắn 2-3 ngày, 98% chứng từ hoàn thành đúng hạn, sáu nhà máy vận hành trên một nền tảng dữ liệu thống nhất và phát thải carbon được theo dõi xuyên suốt. Điều này khẳng định doanh nghiệp logistics Thành phố hoàn toàn có thể làm chủ các giải pháp vận hành chuẩn quốc tế.
Khẳng định vị thế tiên phong của TP.HCM trong năng lực cạnh tranh logistics, đồng thời khi kết hợp với cụm cảng Cái Mép - Thị Vải, hệ thống cảng của khu vực phía Nam nằm trong top 10 thế giới về sản lượng thông qua, ông Trương Tấn Lộc cho rằng, sự phát triển này đang chịu tác động mạnh từ xu hướng xanh hóa, đặc biệt trong vận tải biển - lĩnh vực chiếm tới 85% hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta. Theo ông Lộc, logistics xanh chính là đòn bẩy tái cấu trúc chuỗi vận hành và tối ưu chi phí. Việc đo lường tiêu hao nhiên liệu và kiểm kê khí nhà kính là cơ sở để doanh nghiệp nhận diện những khâu kém hiệu quả. Ứng dụng công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI), cho phép tối ưu lộ trình vận chuyển, có thể giúp giảm tới 15% tiêu thụ nhiên liệu và rút ngắn 25% thời gian giao hàng.
Để thúc đẩy chuyển đổi xanh, ông Lộc đề xuất xây dựng bộ tiêu chí chuẩn về logistics xanh, tạo thước đo chung cho toàn ngành. Cùng với đó là hệ thống chính sách tài chính xanh đủ mạnh như tín dụng ưu đãi, giảm thuế nhập khẩu cho phương tiện - thiết bị xanh, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với đơn vị đạt chứng nhận logistics xanh, hoặc miễn, giảm phí hạ tầng cảng biển và đường bộ cho phương tiện đạt chuẩn khí thải cao. Những chính sách này sẽ giúp doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện đầu tư vào chuyển đổi xanh. Một kiến nghị quan trọng khác là sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để vận hành thị trường tín chỉ carbon trong nước - nguồn lực tài chính mới để tái đầu tư cho công nghệ xanh.
Ở góc độ hạ tầng, ông Lộc đề nghị đẩy nhanh tiến độ các dự án logistics trọng điểm và phát triển hệ thống cảng thủy nội địa dọc sông Sài Gòn và Cái Mép nhằm giảm tải đường bộ và thúc đẩy logistics xanh. Đồng thời, cần quy hoạch lại các trung tâm logistics theo hướng ưu tiên vị trí có khả năng kết nối đa phương thức (đường bộ - đường thủy - đường sắt) và xây dựng mạng lưới trạm sạc công cộng cho xe điện.
Về hạ tầng mềm và nền tảng số, ông Lộc cho rằng điểm nghẽn lớn nhất là sự phân mảnh dữ liệu logistics giữa các chủ thể nên đề xuất xây dựng một hệ sinh thái dữ liệu chung cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và TP.HCM - nền tảng đóng vai trò trục xương sống kết nối thông tin giữa các cảng, hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Hệ thống này sẽ vận hành như một “sàn giao dịch logistics thông minh”, giúp loại bỏ các thủ tục trùng lắp, tăng tốc độ thông quan và chuyển đổi chuỗi cung ứng từ các mắt xích rời rạc thành một hệ thống liên thông, minh bạch, hiệu quả, cạnh tranh cao.

Nhằm giải quyết những điểm nghẽn lớn của ngành logistics và từng bước tiệm cận mô hình logistics thông minh - tiêu chuẩn đang được các quốc gia tiên tiến áp dụng, bà Võ Thị Phương Lan đề nghị cần có những giải pháp chiến lược ở tầm quốc gia như xây dựng hệ sinh thái dữ liệu logistics liên thông toàn diện; ban hành cơ chế khuyến khích chuyển đổi số và logistics xanh; chuẩn hóa nguồn nhân lực logistics số; hoàn thiện hành lang pháp lý về dữ liệu carbon và báo cáo ESG. Logistics thông minh, kết hợp giữa số hóa và xanh hóa chính là trụ cột để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Cụ thể, bà đưa ra bốn nhóm giải pháp trọng tâm:
Thứ nhất, xây dựng hệ sinh thái dữ liệu logistics quốc gia. Hiện nay, dữ liệu giữa các chủ thể gồm doanh nghiệp logistics, hãng tàu, cảng biển, hải quan, kho bãi và vận tải nội địa vẫn tồn tại ở dạng rời rạc. Mỗi đơn vị sử dụng một hệ thống riêng, dẫn tới tình trạng “đứt gãy dữ liệu”, khiến toàn bộ chuỗi vận hành không thể đồng bộ. Tại các quốc gia dẫn đầu như Singapore, Hà Lan, Nhật Bản đều đã xây dựng National Logistics Data Hub - trung tâm dữ liệu logistics quốc gia làm nền tảng cho mọi hoạt động tối ưu vận hành, dự báo, giám sát thời gian thực và ứng dụng AI.
Khi dữ liệu đồng bộ theo thời gian thực, doanh nghiệp có thể giảm đáng kể thời gian xử lý, nâng cao tính minh bạch và hạn chế sai sót vận hành. Với vai trò một mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nếu Việt Nam không có chuẩn kết nối dữ liệu quốc gia, doanh nghiệp trong nước rất khó tích hợp vào hệ thống của các tập đoàn quốc tế. Theo bà Lan, một hệ sinh thái dữ liệu thống nhất sẽ giúp Việt Nam thay đổi vị thế từ “người theo sau” sang “người tham gia chủ động” trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời là nền tảng quan trọng để triển khai AI, Digital Twin, phân tích dự báo và quản lý carbon.
Thứ hai, cơ chế khuyến khích cho chuyển đổi số và logistics xanh: Yếu tố đòn bẩy để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư. Hiện nay, chi phí chuyển đổi số và đầu tư công nghệ xanh (ESG, công nghệ giám sát carbon, hệ thống quản trị 4PL…) vẫn vượt quá khả năng của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm 85-90% ngành logistics Việt Nam. Vì thế theo bà Lan, nhu cầu cấp thiết về các chính sách hỗ trợ mang tính khuyến khích, bao gồm: Tín dụng ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nền tảng công nghệ; Cơ chế Sandbox cho phép thử nghiệm mô hình logistics thông minh trước khi đưa vào áp dụng đại trà; Quỹ Đổi mới sáng tạo về ESG và Logistics xanh hỗ trợ các dự án đo lường phát thải, tối ưu carbon và số hóa chứng từ.
Lý do là ở các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore đều sử dụng ưu đãi và tài trợ công để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới, rút ngắn thời gian chuyển đổi. Nếu không có chính sách khuyến khích, nhiều doanh nghiệp TP.HCM sẽ bị bỏ lại do không thể đáp ứng kịp các tiêu chuẩn ESG, đặc biệt khi CBAM chính thức áp dụng. Cơ chế kích hoạt đầu tư sẽ tạo “cú hích” mạnh mẽ giúp doanh nghiệp Thành phố tiến nhanh hơn vào chuỗi cung ứng xanh toàn cầu, đồng thời giảm chi phí logistics quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh hàng xuất khẩu.
Thứ ba, chuẩn hóa nguồn nhân lực logistics số: Bài toán cốt lõi nhưng thiếu hụt trầm trọng. Dù công nghệ có hiện đại đến đâu, yếu tố con người vẫn quyết định khả năng vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực có kỹ năng logistics số, kỹ năng xử lý dữ liệu, vận hành hệ thống ERP, TMS, 4PL hay phân tích KPI thời gian thực.
Bà Lan đề xuất mô hình hợp tác “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp”, trong đó doanh nghiệp xác định nhu cầu thực tế và trực tiếp tham gia đào tạo. Trường đại học cập nhật giáo trình theo chuẩn quốc tế và theo nhu cầu thị trường. Nhà nước hỗ trợ khung pháp lý và tạo các chương trình đào tạo trọng điểm. Theo bà Lan, các mô hình logistics thông minh yêu cầu đội ngũ nhân sự vận hành hệ thống số phức tạp, điều mà nhiều doanh nghiệp Việt đang chưa sẵn sàng. Nếu thiếu nhân lực, doanh nghiệp không thể khai thác hết giá trị của công nghệ, dẫn đến chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả thấp. “Đào tạo đúng hướng sẽ giúp hình thành “thế hệ chuyên gia logistics số”, đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng cao vị thế lao động trong ngành logistics khu vực”, bà Lan nhấn mạnh.
Thứ tư, hoàn thiện hành lang pháp lý về dữ liệu carbon và báo cáo ESG: Yêu cầu bắt buộc để không bị loại khỏi thị trường xuất khẩu. Khi EU, Mỹ, Nhật Bản và nhiều thị trường lớn đang áp dụng tiêu chuẩn carbon nghiêm ngặt, Việt Nam cần sớm hoàn thiện khung pháp lý để doanh nghiệp xuất khẩu không bị động. Hiện nay, doanh nghiệp Việt bao gồm TP.HCM thiếu bộ tiêu chuẩn đo lường carbon thống nhất và chưa có hướng dẫn chi tiết về báo cáo ESG theo chuẩn quốc tế. Điều này gây khó khăn vì: Mỗi đối tác yêu cầu một mẫu bộ chỉ số khác nhau. Dữ liệu carbon phân tán khiến doanh nghiệp không thể chứng minh tính minh bạch khi xuất khẩu.Các doanh nghiệp FDI đang “ưu tiên” đối tác logistics có khả năng đo lường carbon theo thời gian thực.
Nếu Việt Nam không có chuẩn quốc gia, doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp TP.HCM sẽ tự xoay sở, dẫn tới tốn kém, thiếu nhất quán và dễ vi phạm quy định quốc tế. Khung pháp lý thống nhất giúp doanh nghiệp dễ dàng tích hợp giải pháp đo lường carbon vào hệ thống vận hành. Nếu thực hiện tốt điều này, Việt Nam sẽ đứng vào nhóm quốc gia có năng lực đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu bền vững, tạo lợi thế cạnh tranh lớn khi tham gia các chuỗi cung ứng có giá trị cao.
Đọc thêm Bài 1: Sản xuất thông minh - Rào cản và chính sách
Đọc thêm Bài 2: Tiên phong phát triển khu công nghệ cao phát thải thấp
Đọc thêm Bài 3: Thu hút đầu tư xanh - Động lực chiến lược cho khát vọng công nghiệp công nghệ cao
Lữ Ý Nhi