LTS: TP.HCM vừa trở thành thành viên mới của Mạng lưới Thành phố Sáng tạo UNESCO trong lĩnh vực điện ảnh – một dấu mốc quan trọng cho tham vọng phát triển công nghiệp văn hóa của đô thị lớn nhất nước. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều những chính sách để thực thi.

Dù được UNESCO công nhận là thành phố điện ảnh nhưng TP.HCM vẫn đang đối mặt với hàng loạt điểm nghẽn chưa được tháo gỡ.

“Thành phố điện ảnh” - Tìm lời giải rút ngắn khoảng cách danh hiệu và năng lực: Nhiều điểm nghẽn chưa tháo gỡ (Bài 1)
“Thành phố điện ảnh” - Tìm lời giải rút ngắn khoảng cách danh hiệu và năng lực: Nhiều điểm nghẽn chưa tháo gỡ (Bài 1)

Điểm nghẽn lớn nhất là hạ tầng - điều kiện cơ bản của ngành công nghiệp điện ảnh. Theo bà Nguyễn Châu Linh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Công nghiệp Văn hoá Việt Nam, Thành phố vẫn chưa có một “Film City” đúng nghĩa, các phim trường, trường quay, studio âm thanh hay không gian kỹ xảo còn rời rạc, nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thống, nhiều đoàn phim quốc tế đến Việt Nam vẫn phải tự tìm kiếm dịch vụ chắp vá thay vì có một nơi cung cấp trọn gói.

TS. Đào Lê Na - Trưởng Bộ môn Biên kịch điện ảnh, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM cũng cho rằng, khoảng cách giữa phát triển công nghiệp điện ảnh và năng lực thực tế đang hiện lên rất rõ khi đặt ngành công nghiệp điện ảnh TP.HCM cạnh những trung tâm sản xuất chuyên nghiệp của khu vực như Bangkok, Seoul hay Kuala Lumpur. Cụ thể, những yêu cầu cơ bản như trường quay khép kín, sound stage chuẩn quốc tế, hệ thống backlot, kho cảnh quan, trung tâm hậu kỳ - kỹ xảo quy mô lớn đều thiếu. Một số đơn vị kỹ xảo hoặc âm thanh có tay nghề tốt nhưng hoạt động nhỏ lẻ, không hình thành được chuỗi dịch vụ đủ tầm để thuyết phục các hãng phim quốc tế. Chính vì thiếu một hệ sinh thái hạ tầng đúng chuẩn, các đoàn phim nước ngoài dù đánh giá cao bối cảnh đa dạng của TP.HCM cũng buộc phải cân nhắc về rủi ro, chi phí phát sinh và thủ tục phức tạp.

Ông Hồ Thế Vinh
Ông Hồ Thế Vinh

Ông Hồ Thế Vinh - Phó Giám đốc sản xuất Kênh TodayTV nhìn nhận thực trạng không ít đoàn phim phải “tự bơi” trong khâu tìm bối cảnh: Mỗi cảnh quay gần như trở thành một cuộc thương lượng và chạy đôn chạy đáo, thay vì được triển khai trong một hệ sinh thái sản xuất bài bản. Ông Vinh cho rằng việc thiếu vắng một khu phức hợp phim trường (studio complex) đúng nghĩa khiến các nhà làm phim luôn ở thế bị động. Nếu có một tổ hợp trường quay với backlot, trường quay ảo, khu kỹ xảo và hệ thống dịch vụ hậu kỳ đồng bộ, đoàn phim hoàn toàn có thể tạo ra những “all-in-one shot” - những cú máy liền mạch, giàu chiều sâu thị giác, đủ sức tạo dấu ấn cho điện ảnh Việt. Khi bối cảnh bị chia nhỏ, tạm bợ và lệ thuộc vào quá nhiều yếu tố ngẫu hứng, chi phí sản xuất lập tức đội lên theo từng ngày. Khó khăn lớn nhất không chỉ là tiền bạc, mà là việc kiểm soát chất lượng kỹ thuật từ ánh sáng, âm thanh cho đến thiết kế mỹ thuật… vốn đòi hỏi sự ổn định và đồng bộ. Đây chính là bài toán mà TP.HCM cần giải quyết nếu muốn tiến tới một ngành công nghiệp điện ảnh đúng nghĩa.

Điểm nghẽn thứ hai là cơ chế cấp phép rườm rà và phân tán, thiếu linh hoạt nên tạo ra độ trễ trong sản xuất. TS. Na gọi đây là “điểm nghẽn thể chế”. Bộ máy quản lý điện ảnh của Thành phố hoạt động phân mảnh, không có đầu mối duy nhất có quyền điều phối và xử lý trọn gói toàn bộ thủ tục liên quan đến bối cảnh, giao thông, an ninh, di tích… Mô hình Film office hay Film Commission đã quá phổ biến ở các đô thị làm phim trên thế giới nhưng ở TP.HCM vẫn chưa hình thành đúng nghĩa, dù Thành phố đã ban hành nhiều nghị quyết về công nghiệp văn hóa. Chưa kể, theo trải nghiệm của ông Hồ Thế Vinh thì cơ chế vẫn còn tính “xin - cho” làm lỡ dở thời cơ dự án của nhiều đoàn phim.

ThS. Nguyễn Châu Linh
ThS. Nguyễn Châu Linh

Chưa kể, chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư còn quá nhiều bất cập. Bà Châu Linh chỉ ra một thực tế dai dẳng: TP.HCM đến nay vẫn chưa có Quỹ Điện ảnh để hỗ trợ các dòng phim nghệ thuật, phim gia đình, phim tài liệu… những thể loại có vai trò bồi đắp văn hóa nhưng thường bị thị trường thương mại bỏ rơi vì rủi ro quá lớn. Đây là khoảng trống khiến nhiều dự án nghiêm túc không thể hình thành hoặc chỉ dừng lại ở mức ý tưởng.

TS. Na tiếp tục làm rõ hơn bức tranh chính sách còn thiếu khi Thành phố gần như không sở hữu bất kỳ công cụ chia sẻ rủi ro nào dành cho doanh nghiệp điện ảnh. Không có hoàn thuế, chưa có ưu đãi thuế theo tiêu chí rõ ràng, không có bảo lãnh tín dụng, cũng không có quỹ đầu tư vận hành theo mô hình PPP như nhiều quốc gia trong khu vực. Trong khi đó, Thái Lan đã hoàn tiền 15-20% cho đoàn phim quốc tế và nhờ đó thu hút hàng trăm dự án mỗi năm, tạo ra một ngành công nghiệp quy mô. Còn TP.HCM, như TS. Na nhận xét, vẫn chỉ dừng lại ở mức “tạo điều kiện”.

“Ta đang kỳ vọng doanh nghiệp đầu tư trong khi cơ chế chia sẻ rủi ro gần như bằng không. Dòng vốn đương nhiên sẽ chảy sang những lĩnh vực an toàn hơn”, TS. Na nhấn mạnh.

Từ góc nhìn của chuyên gia truyền thông điện ảnh Châu Quang Phước cho rằng, cần tỉnh táo trước khi đặt kỳ vọng vào một giải pháp “thần tốc”. Chính sách ưu đãi thuế - công cụ mạnh mẽ nhất của các thị trường điện ảnh lớn thực tế rất khó triển khai tại Việt Nam chứ chưa nói đến TP.HCM. Khác với Mỹ, nơi từng bang được toàn quyền xây dựng gói ưu đãi thuế riêng để hút đoàn phim, TP.HCM không thể vượt khỏi khung thuế chung của cả nước. Vì vậy, trông đợi ưu đãi thuế trở thành “đột phá tức thì” là không phù hợp với bối cảnh thực tế.

Ông Châu Quang Phước
Ông Châu Quang Phước

Về Quỹ hỗ trợ Điện ảnh, ông Phước cũng thừa nhận tầm quan trọng của nó đối với cả phim độc lập lẫn phim thương mại. Tuy nhiên, đây không phải là chuyện “hô khẩu hiệu rồi lập được ngay”. Nhiều năm qua, vấn đề này đã liên tục xuất hiện trong các hội thảo chuyên ngành của TP.HCM nhưng vẫn vướng ở hai điều kiện tiên quyết: lộ trình dài hơi và cơ chế đánh giá hiệu quả minh bạch. Ở giai đoạn ngắn hạn, rất khó đòi hỏi các dự án phim Việt vốn đang loay hoay với bài toán thị trường đáp ứng đầy đủ bộ tiêu chí chặt chẽ gắn với ngân sách công. Vì thế, nếu kỳ vọng Thành phố lập ngay một Quỹ quy mô lớn và tạo ra kết quả rõ ràng ngay trong năm tới, đó gần như là điều không thể.

Một điểm nghẽn khác được các chuyên gia đồng tình là chiến lược marketing quốc tế của Thành phố chưa rõ nét. Bà Châu Linh nhấn mạnh rằng TP.HCM chưa xây dựng được hình ảnh “điểm đến điện ảnh”, trong khi Singapore, Bangkok hay Busan đã làm điều này từ nhiều năm trước bằng các chiến dịch truyền thông, chính sách hỗ trợ đoàn phim và sự kiện thường niên. TS. Na cũng cảnh báo rằng danh hiệu UNESCO có thể dễ dàng bị biến thành “thành tích truyền thông” nếu Thành phố không đầu tư nghiêm túc cho chiến lược phát triển dài hạn, bao gồm quy hoạch bối cảnh, tạo cơ chế cho các tác phẩm khai thác ký ức đô thị, văn hóa cộng đồng, không gian sáng tạo.

“Thành phố điện ảnh” - Tìm lời giải rút ngắn khoảng cách danh hiệu và năng lực: Nhiều điểm nghẽn chưa tháo gỡ (Bài 1)
“Thành phố điện ảnh” - Tìm lời giải rút ngắn khoảng cách danh hiệu và năng lực: Nhiều điểm nghẽn chưa tháo gỡ (Bài 1)
“Thành phố điện ảnh” - Tìm lời giải rút ngắn khoảng cách danh hiệu và năng lực: Nhiều điểm nghẽn chưa tháo gỡ (Bài 1)
“Thành phố điện ảnh” - Tìm lời giải rút ngắn khoảng cách danh hiệu và năng lực: Nhiều điểm nghẽn chưa tháo gỡ (Bài 1)

Hưng Khánh - Thy Huyền