Doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước kỳ vọng sẽ sớm giải quyết được bài toán nội địa để kéo giảm giá thành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước.
Theo thống kê của Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), cả nước hiện có hơn 377 doanh nghiệp sản xuất liên quan đến ô tô, trong đó có 169 doanh nghiệp FDI, chiếm tỷ lệ 46,43%. Có khoảng hơn 40 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô; 45 doanh nghiệp sản xuất khung gầm, thân xe, thùng xe; 214 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô...
Số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô hiện có chưa đến 100 nhà cung cấp cấp 1 và 150 nhà cung cấp cấp 2,3. Giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi thấp hơn mục tiêu đề ra, đồng thời thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực.
Điều này cho thấy, Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc đạt được mục tiêu nội địa hóa cao như những quốc gia đi trước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và Malaysia, nơi mà tỷ lệ này trung bình đạt 65-70%. Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam mới chỉ đạt giá trị sản xuất khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp ô tô. Hơn nữa, 80% các linh kiện ô tô quan trọng như động cơ, hệ truyền động, hộp số, hệ thống an toàn và hệ thống điện tử, đặc biệt là chip bán dẫn, đều phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Ngoài tỷ lệ nội địa hóa thấp, ô tô trong nước còn chịu chi phí sản xuất lắp ráp cao hơn các nước trong khu vực. Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) cho biết, nguyên nhân do linh kiện sản xuất trong nước còn ít khiến cho chi phí sản xuất lắp ráp xe tại Việt Nam cao hơn từ 10 - 20%, đẩy giá bán xe lắp ráp trong nước cao hơn khoảng 20% so với các nước trong khu vực.
Cục Công nghiệp cho biết, tỷ lệ sở hữu ô tô của Việt Nam ở mức 23 chiếc/1.000 người dân, chỉ bằng 1/10 của Thái Lan và 1/20 của Malaysia. Tuy nhiên, thị trường ô tô Việt Nam lại có tốc độ tăng trưởng xếp thứ hai Đông Nam Á. Vì vậy, ngành công nghiệp ô tô nước ta nói chung và công nghiệp hỗ trợ phục vụ công nghiệp ô tô nói riêng được nhận định vẫn còn nhiều dư địa, tiềm năng để phát triển.
Để cải thiện năng lực sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, Dự thảo chiến lược phát triển ngành ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 của Bộ Công Thương đã đặt ra nhiều giải pháp.
Một trong những mục tiêu chính là phát triển linh kiện cho xe điện, xe hybrid, xe năng lượng mặt trời và nhiên liệu sinh học. Để đạt được điều này, cần xây dựng các trung tâm hoặc cụm liên kết công nghiệp ô tô thông qua việc tái tổ chức sản xuất. Đồng thời, việc hợp tác giữa các doanh nghiệp lắp ráp ô tô, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cần được thúc đẩy nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng cường chuyên môn hóa. Chiến lược này cũng đặt mục tiêu phát triển các dự án lớn về công nghiệp vật liệu, như thép cán nóng và thép chế tạo, để bảo đảm nguồn vật liệu đầu vào cho ngành.
Bộ Công Thương nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm sản xuất các linh kiện quan trọng như động cơ, hộp số, bộ truyền động và thân vỏ xe. Hợp tác với các hãng ô tô lớn sẽ giúp Việt Nam sản xuất các loại phụ tùng có tiềm năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời tăng cường xuất khẩu.
Ngoài ra, việc thu hút đầu tư vào các lĩnh vực cơ bản như tạo phôi, gia công chính xác và xử lý bề mặt là giải pháp cần thiết để hỗ trợ ngành. Hợp tác với các ngành công nghiệp vật liệu đầu vào cũng được nhấn mạnh để đảm bảo nguồn lực bền vững.
Khuyến khích sản xuất các dòng xe thân thiện với môi trường như xe điện và xe hybrid, đáp ứng tiêu chuẩn khí thải theo lộ trình, cũng là một trong những ưu tiên nhằm giúp ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
An Mai (t/h)