(ĐTTCO) - Với mục tiêu tăng trưởng GDP trên 10%, vai trò của hệ thống ngân hàng (NH) trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi NH không chỉ là kênh dẫn vốn chủ lực mà còn là trung tâm cho các mục tiêu phát triển.
Vai trò không thể thay thế
Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), GDP quý III tăng 8,23% so với cùng kỳ 2024, tính chung 9 tháng, tăng 7,85%. Cùng với đó, ngày 13-11, Quốc hội đã thông qua mục tiêu phấn đấu tăng trưởng GDP từ 10% trở lên, GDP bình quân đầu người đạt 5.400-5.500 USD.
Bộ phận Nghiên cứu thị trường và kinh tế toàn cầu của NH UOB (Singapore) nhận định, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 đến nay vượt kỳ vọng, bất chấp rủi ro từ chính sách thuế của Mỹ, cao hơn đáng kể so với dự báo 7,2% của Bloomberg và 7,6% của UOB.
Với mức tăng 7,85% trong 3 quý, triển vọng cả năm vẫn tích cực. Tuy vậy, theo UOB, để đạt mục tiêu tăng trưởng chính thức 8,3-8,5%, GDP quý IV sẽ phải tăng rất mạnh, từ 9,7-10,5%. “Với kết quả tăng trưởng mạnh mẽ trong 9 tháng và chưa có dấu hiệu giảm tốc, NHNN hiện có rất ít dư địa để nới lỏng chính sách tiền tệ”, các chuyên gia UOB nhận định.
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, Thành viên Tổ Tham mưu thành lập trung tâm tài chính Quốc tế tại TPHCM, nhận định để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 10% (tức tăng trưởng 2 con số) từ năm 2026 trở đi và duy trì tốc độ đó trong 20 năm liên tục đến 2045 nhằm giúp Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình thì sẽ cần có lượng vốn cung ứng rất lớn.
Song theo các chuyên gia, tại Việt Nam, khu vực NH vẫn là kênh cung ứng vốn chủ lực. Hiện tỷ lệ tín dụng/GDP đã vượt 130%, phản ánh mức độ phụ thuộc rất lớn của nền kinh tế vào hệ thống NH và NH sẽ còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa các kế hoạch tăng trưởng.
Cụ thể, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu chính sách, Trường Đại học VinUni chia sẻ, muốn tăng trưởng nhanh, yếu tố then chốt vẫn là vốn. Nếu Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng thực 10%/năm đến 2030, cộng thêm 3% lạm phát, thì tăng trưởng danh nghĩa khoảng 13%.
“Để đạt mức này, tăng trưởng tín dụng cần cao hơn tăng trưởng GDP danh nghĩa khoảng 2-3%, tức là quanh mức 15%/năm”, ông Nguyễn Tú Anh tính toán. Khi đó, quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu của hệ thống NH phải tăng tương ứng. Điều đó cho thấy vai trò của NH là cực kỳ quan trọng.
Với phân tích trên, TS. Nguyễn Tú Anh cho rằng, trong vòng 5 năm tới, tổng dư nợ tín dụng sẽ gấp đôi. Khi đó, quy mô tài sản, vốn chủ sở hữu và các chỉ số tài chính khác của NH cũng sẽ tăng tương ứng. Và trong vòng 15 năm tới, vai trò của hệ thống NH vẫn cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp vốn để đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số.
“Thị trường vốn có thể phát triển và đồng hành và chúng ta vẫn mong muốn thị trường vốn phát triển để chia sẻ gánh nặng với hệ thống NH nhưng trong trung hạn, vai trò của NH vẫn là tối quan trọng”, TS. Nguyễn Tú Anh chia sẻ .
Kỳ vọng dòng vốn phi tín dụng
Đã có nhiều khuyến nghị rằng mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào tín dụng đang đặt gánh nặng lớn lên hệ thống NH, kéo theo những rủi ro về thanh khoản, rủi ro kỳ hạn và sức khỏe tài chính của toàn hệ thống.
Chính vì vậy, các chuyên gia cũng cho rằng, hiện NH vẫn đóng vai trò “xương sống” và làm tốt nhiệm vụ, nhưng nếu thị trường vốn và các định chế tài chính phi NH không phát triển mạnh mẽ hơn, mục tiêu tăng trưởng hai con số trong dài hạn sẽ khó duy trì tính bền vững.
Dữ liệu công bố gần đây cho thấy thị trường tài chính Việt Nam đã đạt quy mô xấp xỉ 30 triệu tỷ đồng, với mức tăng trưởng bình quân 16% mỗi năm suốt 15 năm qua, cao gấp 2,5 lần tốc độ tăng GDP. Nhưng tính đến giữa năm 2025, tín dụng chiếm 59% nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, tăng mạnh so với mức 50,6% cuối năm 2024.
Ngược lại, tỷ trọng vốn FDI và đầu tư công giảm xuống còn 13,96% và 13,23%. Các kênh vốn được kỳ vọng giúp giảm phụ thuộc tín dụng như trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) hay cổ phiếu lại thu hẹp tỷ trọng xuống còn 9,95% và 0,23%.
Theo NHNN, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP cuối năm 2024 đã lên tới 134%, mức khá cao so với các nền kinh tế mới nổi. FiinRatings ước tính con số này đạt khoảng 146% vào cuối năm 2025.
WB và IMF cũng đã cảnh báo Việt Nam cần tái cấu trúc lại nguồn vốn, tăng vai trò của thị trường trái phiếu, cổ phiếu, bảo hiểm, quỹ đầu tư và các định chế phi NH. Việc đa dạng hóa kênh vốn sẽ giảm tải cho hệ thống NH và giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn trung - dài hạn ổn định hơn.
Thực tế 9 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng đạt hơn 13,4%, cao hơn 4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 9,1%) trong tăng trưởng huy động 9 tháng đầu năm chỉ đạt 10,65%. Mức chênh lệch khá cao khiến các NH phải tăng cường huy động để đảm bảo nguồn vốn cho vay trong tương lai, khiến lãi suất rục rịch tăng trở lại.
“Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt khu vực tư nhân, vẫn phụ thuộc vốn vay NH cho cả các dự án hàng chục, hàng trăm tỷ đồng. Trong khi đó, NH về nguyên tắc chỉ cung cấp vốn ngắn và trung hạn, nhưng thực tế đang phải bơm vốn cho cả những dự án dài hạn như hạ tầng, nhà xưởng, bất động sản. Điều này khiến rủi ro kỳ hạn và thanh khoản gia tăng”, một chuyên gia tài chính cho biết.
Hiện nay, thị trường kỳ vọng kênh trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) sẽ phục hồi mạnh mẽ, qua đó giảm bớt sự phụ thuộc vào tín dụng. Sau giai đoạn siết chặt phát hành từ 2022, thị trường TPDN đã phục hồi song nhóm NH vẫn là nhà phát hành chính.
Thống kê 9 tháng đầu năm 2025, tổng lượng TPDN đã phát hành đạt hơn 429.600 tỷ đồng nhưng trong đó khối NH đã phát hành hơn 306.500 tỷ, chiếm hơn 71% toàn thị trường. Chính trong bối cảnh đó, nhu cầu đa dạng hóa kênh dẫn vốn trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Giới chuyên gia cho rằng Việt Nam cần mở rộng thêm các sản phẩm như trái phiếu dự án, trái phiếu xanh, chứng khoán hóa tài sản, quỹ REIT, cùng các mô hình hỗ trợ như PPP hay huy động vốn cộng đồng. Hình thức cho thuê tài chính cũng được đánh giá còn nhiều dư địa.
Theo Hiệp hội Cho thuê tài chính, loại hình này phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa nhờ khả năng chấp nhận rủi ro cao và cho phép tài trợ cả tài sản vô hình như công nghệ, phần mềm, bản quyền.
Ông Phùng Xuân Minh, Chủ tịch Saigon Ratings cũng chia sẻ, TPDN là một trong 3 kênh quan trọng bên cạnh tín dụng NH và thị trường chứng khoán trong cơ cấu huy động vốn. Hơn nữa, Nhà nước không thể tự đảm đương toàn bộ các dự án hạ tầng, năng lượng hay giao thông.
Vì vậy, sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân là cần thiết. Muốn khu vực tư nhân đầu tư hiệu quả, thị trường trái phiếu phải vận hành minh bạch, và xếp hạng tín nhiệm đóng vai trò như một công cụ then chốt để đo lường và quản trị rủi ro.
YÊN LAM