Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng Chuôn Ngọ (xã Chuyên Mỹ, Hà Nội) từ lâu được biết đến như cái nôi của nghề khảm trai - một nghề thủ công tinh xảo đã tồn tại hàng trăm năm.

Nét văn hóa đặc trưng xứ Đoài
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, có thời điểm tưởng như bị lãng quên, thế nhưng nhờ tâm huyết của những người thợ làng nghề, khảm trai Chuôn Ngọ vẫn bền bỉ được gìn giữ và tiếp tục tỏa sáng trong đời sống đương đại.
Theo lời truyền trong dân gian, ông tổ nghề khảm trai là Trương Công Thành - một vị tướng tài dưới triều Lý Nhân Tông, nổi danh với nhiều chiến công trong công cuộc bảo vệ đất nước.
Sau khi lui về quê ở ẩn, ông dành thời gian tìm kiếm, nghiên cứu những loại vỏ trai, ốc để trang trí đồ thờ tự. Từ niềm say mê ấy, nghề khảm trai dần hình thành.
Trước khi mất vào năm 1099, ông đã truyền lại kỹ nghệ độc đáo này cho dân thôn Ngọ. Từ đó, nghề dần lan rộng khắp xã Chuyên Mỹ và nhiều vùng lân cận, trở thành nét văn hóa đặc trưng của xứ Đoài.
Điểm tạo nên danh tiếng của khảm trai Chuôn Ngọ chính là sự tinh tế của từng mảnh vỏ trai, ốc được chọn lựa kỹ lưỡng. Những mảnh trai khi lên sản phẩm luôn phẳng, mịn, sắc cạnh, khớp vừa khít vào phần gỗ đã được đục sẵn, tạo nên vẻ đẹp sang trọng, mềm mại. Để làm được điều này, người thợ phải rất am hiểu từng loại nguyên liệu. Vỏ trai, ốc có vô số đặc điểm khác nhau như có loại cánh mảnh và màu sẫm, có loại thịt trắng và vỏ dày, có loại nhiều vân óng ánh. Riêng ốc biển - đặc biệt là ốc xà cừ, thường được khai thác từ các vùng Quy Nhơn, Quảng Nam, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết…
Nổi bật nhất trong số nguyên liệu là vỏ “Cửu Khổng," dễ nhận biết nhờ 9 lỗ trên mép vỏ và sắc vân rực rỡ như cầu vồng. Theo những thợ khảm lâu năm, đây là loại vỏ không thể thiếu khi muốn tạo hiệu ứng mặt nổi như núi non, lông chim phượng hay cánh công. Hiện nay, nguồn nguyên liệu trong nước không còn dồi dào như trước, nên phần lớn vỏ trai, vỏ ốc được nhập từ Indonesia, Singapore hay Trung Quốc.
Một sản phẩm khảm trai hoàn chỉnh luôn trải qua sáu công đoạn chính: vẽ mẫu, cưa vỏ theo nét vẽ, đục gỗ, gắn mảnh trai lên gỗ, mài-tỉa chi tiết và cuối cùng là tô bột đen để làm nổi bật đường nét. Trong đó, công đoạn khó nhất được giới nghề gọi là “cẩn xà cừ." Đây là kỹ thuật tổng hợp đòi hỏi nghệ nhân vừa khéo léo vừa tỉ mỉ: từ việc đục những đường rãnh chính xác theo mẫu vẽ, chọn mảnh vỏ phù hợp, gắn xuống nền gỗ, rồi mài phẳng, tỉa sắc cho đến khi bức tranh đạt độ hài hòa mong muốn. Trước khi được đưa vào khảm, vỏ trai còn phải trải qua công đoạn mài thủ công rất kỳ công, rồi được ngâm rượu và hơ lửa để dễ dàng chẻ, cưa mà không bị nứt vỡ.

Nghệ nhân Nguyễn Đình Hiếu làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ đang truyền thần chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Hành trình gìn giữ và phát triển tinh hoa khảm trai
Nếu như những năm 1990 là thời kỳ hưng thịnh, nhà nhà trong làng đều làm nghề khảm trai, thì vài năm trở lại đây số hộ còn duy trì nghề đã giảm đáng kể. Nhiều gia đình chuyển nghề vì nghề khảm đòi hỏi nhiều công sức và không phải lúc nào cũng đem lại thu nhập ổn định.
Tuy vậy, nhiều nghệ nhân vẫn kiên trì bám trụ, đứng đầu trong số đó là nghệ nhân Nguyễn Đình Hải - người có gần 30 năm theo nghề. Anh được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân năm 2016 và được công nhận Nghệ nhân Quốc gia năm 2017. Với lòng yêu nghề, anh không chỉ tiếp tục sáng tác mà còn tích cực hướng dẫn lớp trẻ, góp phần bảo tồn di sản khảm trai của làng.
Để giữ nghề cha ông, nghệ nhân Chuôn Ngọ ngày nay không chỉ chăm chút kỹ thuật mà còn nỗ lực đổi mới tư duy sáng tạo. Nếu như trước kia, sản phẩm khảm chủ yếu phục vụ đền chùa, nhà thờ họ như hoành phi, câu đối, sập gụ, tủ chè hay các bức tranh cổ như tùng-cúc-trúc-mai, Tam Quốc, vinh quy bái tổ, thì hiện nay mẫu mã đã phong phú hơn rất nhiều. Sản phẩm khảm trai xuất hiện trên hộp đựng trà, ống đũa, bát đĩa, tranh lưu niệm phục vụ du khách hay quà tặng văn hóa.
Đặc biệt, dòng tranh khảm truyền thần đang trở thành điểm nhấn mới của làng nghề. Các xưởng trong làng nhận làm chân dung các nhân vật lịch sử như vua Quang Trung, Hai Bà Trưng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và đặc biệt là tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh - luôn được khách trong và ngoài nước yêu thích.
Khảm truyền thần là kỹ thuật khó bậc nhất, bởi người nghệ nhân không chỉ am hiểu kỹ thuật chạm khảm mà còn phải cảm nhận được thần thái, tính cách của nhân vật, để biến những mảnh vỏ vô tri trở thành một gương mặt sống động. Cũng chính vì tính chất phức tạp ấy mà số nghệ nhân đủ trình độ thực hiện khảm truyền thần hiện chỉ còn rất ít.
Dẫu đối mặt nhiều biến động như không ít làng nghề truyền thống khác, nhưng người thợ Chuôn Ngọ vẫn miệt mài giữ nghề. Bằng đôi tay chai sạn, bằng niềm tự hào về di sản tổ tiên, họ đang ngày ngày tiếp tục hành trình gìn giữ và phát triển tinh hoa khảm trai - một phần linh hồn văn hóa của vùng đất Thăng Long nghìn năm văn hiến.
Theo TTXVN