Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tháng 9/2025 giảm mạnh do Philippines - thị trường tiêu thụ lớn nhất tạm ngừng nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, Ghana đã vươn lên trở thành thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần 22% tổng thị phần trong tháng.

Trong tháng 9, Việt Nam xuất khẩu khoảng 466.800 tấn gạo, đạt giá trị 232,38 triệu USD, giảm tới 43,27% về khối lượng và 54,73% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Tính đến hết ngày 30/9, tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt 6,825 triệu tấn, tương đương 3,486 tỷ USD, giảm 2,05% về sản lượng và 19,98% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.

Sự sụt giảm mạnh này chủ yếu do Philippines, thị trường tiêu thụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong nhiều năm qua, tạm ngưng nhập khẩu gạo Việt Nam. Nhờ đó, Ghana nổi lên là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong tháng 9, chiếm gần 22% thị phần, tiếp đến là Bờ Biển Ngà với hơn 21% và Malaysia với gần 10%. Sự dịch chuyển này cho thấy tính linh hoạt của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc đa dạng hóa thị trường và duy trì sản lượng trong bối cảnh nhu cầu biến động.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Trong nước, theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, giá lúa gạo tại các địa phương trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tuần qua tương đối ổn định. Tại Cần Thơ, lúa Jasmine duy trì ở mức 8.400 đồng/kg, OM 18 6.800 đồng/kg, IR 5451 6.200 đồng/kg, và ST25 9.400 đồng/kg. Tại An Giang, giá lúa tươi phần lớn đi ngang, phổ biến trong khoảng 5.000 - 6.000 đồng/kg tùy loại; riêng OM 380 giảm nhẹ 100 đồng/kg, còn 5.700 - 5.900 đồng/kg.

Trên thị trường bán lẻ, giá gạo tại An Giang giữ ổn định: gạo thường dao động từ 13.000 đến 15.000 đồng/kg, gạo thơm Jasmine khoảng 16.000 - 18.000 đồng/kg, Hương Lài và gạo Nhật khoảng 22.000 đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.100 - 8.250 đồng/kg, gạo thành phẩm 9.500 - 9.700 đồng/kg, trong khi OM 380 nguyên liệu ở mức 7.800 - 7.900 đồng/kg và gạo thành phẩm 8.800 - 9.000 đồng/kg. Giá phụ phẩm các loại, như cám khô và trấu, dao động từ 7.250 đến 10.000 đồng/kg.

Theo các chuyên gia, mức giá ổn định trong bối cảnh xuất khẩu chững lại cho thấy sức tiêu thụ nội địa vững và sự chủ động trong điều tiết nguồn cung của doanh nghiệp, qua đó giúp nông dân không bị ảnh hưởng lớn.

Tính đến ngày 6/10/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết các tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt tiến độ sản xuất lúa khá tích cực. Vụ Hè Thu 2025 đã xuống giống được hơn 1,5 triệu ha, trong đó 1,495 triệu ha đã thu hoạch, năng suất trung bình đạt 59,45 tạ/ha, sản lượng ước khoảng 8,89 triệu tấn.

Đối với vụ Thu Đông, toàn vùng đã gieo sạ 726.000 ha, đạt 97,85% kế hoạch, với 148.000 ha đã thu hoạch, năng suất trung bình 57,05 tạ/ha, sản lượng khoảng 843.000 tấn. Riêng vụ Mùa, tiến độ xuống giống mới đạt 98.000 ha, tương đương 56% kế hoạch. Những kết quả này cho thấy nguồn cung lúa gạo trong nước vẫn được đảm bảo ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp chủ động điều tiết xuất khẩu trong các tháng cuối năm.

Trên thị trường quốc tế, giá gạo châu Á đang bước vào giai đoạn điều chỉnh mạnh khi nguồn cung từ các vụ thu hoạch mới tăng nhanh trong khi nhu cầu nhập khẩu giảm. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu, kết hợp với biến động tỷ giá, khiến bên mua có lợi thế hơn trong đàm phán giá.

Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm xuống còn 340 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ năm 2007. Các nhà xuất khẩu cho biết, nguồn cung nội địa tăng mạnh nhờ thời tiết thuận lợi, trong khi đồng baht tăng giá khiến gạo Thái kém cạnh tranh hơn. Ở Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm chỉ còn 340 - 345 USD/tấn, còn gạo trắng 5% tấm khoảng 360–370 USD/tấn, mức thấp nhất trong gần một thập kỷ. Dù đồng rupee yếu giúp giảm áp lực lên xuất khẩu, nhu cầu thấp khiến giá vẫn đi xuống.

Ngược lại, Bangladesh là một trong số ít quốc gia tích cực nhập khẩu, khi vừa phê duyệt gói mua 50.000 tấn gạo Ấn Độ với giá 359,77 USD/tấn để bình ổn thị trường nội địa. Theo giới phân tích, giá gạo giảm đang giúp nhiều nước nhập khẩu hạ nhiệt lạm phát lương thực, nhưng xu hướng này có thể đảo chiều nếu thời tiết xấu hoặc chính phủ các nước xuất khẩu siết lại nguồn cung.

Trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT), giá các mặt hàng nông sản chủ lực của Mỹ tiếp tục giảm trong phiên cuối tuần 10/10. Giá đậu tương giảm 15,5 xu xuống còn 10,06 USD/bushel, ngô giảm còn 4,13 USD/bushel, và lúa mì giảm xuống 4,98 USD/bushel. Nguyên nhân chính là do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang, cùng với dự báo nguồn cung toàn cầu dồi dào trong vụ thu hoạch mới tại Argentina và Australia.

Thị trường cà phê thế giới cũng ghi nhận đà giảm mạnh. Giá Robusta tại London mất 86 USD/tấn, còn 4.480 USD/tấn, trong khi giá Arabica tại New York giảm 4,3 US xu/lb, còn 373,05 US xu/lb. Theo giới thương mại, giá giảm chủ yếu do thu hoạch nhanh ở Brazil, dự báo sản lượng cà phê Việt Nam tăng 6%, cùng nhu cầu tiêu thụ chậm lại. Tuy nhiên, tồn kho Arabica đang ở mức thấp kỷ lục, nên nếu có yếu tố bất lợi từ thời tiết hoặc gián đoạn nguồn cung, giá cà phê có thể bật tăng trở lại.

Tháng 9/2025 đánh dấu sự thay đổi đáng chú ý trong cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam khi Ghana lần đầu tiên vượt Philippines để trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất. Dù sản lượng xuất khẩu chung giảm, ngành gạo Việt Nam vẫn duy trì được nguồn cung trong nước ổn định, giá nội địa vững và đảm bảo lợi nhuận tương đối cho nông dân.

Giới chuyên môn đánh giá, việc Ghana và nhiều quốc gia châu Phi tăng nhập khẩu là cơ hội để Việt Nam mở rộng thị phần ngoài khu vực châu Á, giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Cùng với tiến độ sản xuất tích cực và tiềm năng mở rộng thị trường, gạo Việt Nam được kỳ vọng tiếp tục giữ vững vị thế trong nhóm xuất khẩu hàng đầu thế giới trong quý IV/2025.

Văn Sơn